Tổng quan về Nần Nghệ

88 views

Tên khoa học: Dioscorea collettii Hook.f. 1892.

Tên đồng nghĩa: Dioscorea oenea Prain & Burk. 1914.

Tên khác: Từ collett.

Họ: Củ nâu (Dioscoreaceae).

Giới thiệu :

Đầu những năm 1970, trong lúc đi sưu tầm thảo dược quý, các chuyên gia trường đại học Dược Hà Nội gặp gỡ một cụ già người Dao và được cụ chỉ cho một dây leo cuốn, củ có màu vàng, rễ giống râu hùm, có vị đắng và chỉ mọc ở độ cao trên 1500m so với mặt nước biển. Cụ nói “cây này quý lắm đấy, nhưng chỉ làm thuốc thôi không ăn được đâu, nó giúp một số cán bộ bụng to đã bé lại và giúp hết đau nhức xương khớp rất hiệu nghiệm; dân ở đây gọi nó là củ Nần (Nần theo tiếng dân tộc có nghĩa là râu hùm)”. Về mặt thực vật học, các chuyên gia nhận ra nó thuộc họ củ nâu, thuộc chi Dioscorea.

Thảo dược này sau đó đã được giám định tên khoa học là Dioscorea collettii, chiết xuất saponin từ củ với hàm lượng khá cao. (Những năm sau đó trong các công trình khoa học đăng trên tạp chí Dược học trong nước và ở Liên Xô cũ, cây được đặt tên là Nần nghệ).

A. Mô tả :

Dây leo quấn, sống nhiều năm, dài 5-10 m. Thân rễ màu vàng, phân nhiều nhánh ngắn tạo thành một khối có đường kính đạt tới 20 cm. Lá đơn, mọc cách; phiến lá hình tim, cỡ 6-10 × 5-9 cm; có 7 gân, trong đó 3 gân gốc vươn tới chóp lá; ở gốc cuống lá có 2 gai nhỏ cong (lá kèm biến dạng). Cụm hoa đực là những xim dài 10-30 cm, mỗi xim có 3-4 hoa. Hoa đực không cuống, bao hoa gồm 6 mảnh dính nhau ở gốc, với 6 thùy hình tam giác ở đỉnh. Nhị hữu thụ 3 có chỉ nhị chia đôi thành hình nạng và mỗi nhãnh mang 1 bao phấn; nhị lép 3, hình dùi. Cụm hoa cái hình chùm, dài 15-30 cm. Hoa cái có 2 lá bắc, bao hoa 6 thùy, không có nhị lép; nùm nhụy 3 thùy. Quả nang quặt lại, có 3 cánh, 3 ô, mỗi ô chứa 2 hạt. Hạt có cánh tròn.

Thân rễ nằm dưới đất, đến tháng 2-3 mới mọc thân khi sinh, tháng 5-6 ra hoa và kết quả, cây tàn lụi vào tháng 11-12.

B. Phân bố:

– Trong nước: Cây phân bố ở Sơn La (Mộc Châu).

– Thế giới: Cây có ở Ấn Độ, Trung Quốc, Myanmar.

Cây mọc rải rác ven rừng, trong rừng tre nứa, cây bụi, ven suối, sườn núi. Phân bố rất hẹp, mọc rất rải rác, nơi sống đang bị xâm hại do tàn phá rừng.

Vì vậy, hiện nay Nần nghệ đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá “hiếm” (R) [1].

C. Bộ phận dùng :

Thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây. Thân rễ không có hình dạng nhất định, thường phân nhánh  và thắt thành từng đoạn không đều nhau, chiều dài từ 5 cm  đến 8 cm, dày 2 cm đến 3 cm, tạo thành khối. Ở tận cùng  các nhánh có những lớp bần tụ thành từng đám vẩy màu  đen. Vỏ ngoài cỏ màu nâu vàng hoặc xám, xù xì, lồi lõm,  mang rất nhiều rễ con nhỏ dạng sợi cứng, phần sát với thân  rễ có vết tích của lớp bần bị bong ra, tạo thành những ống  ôm lấy rễ con. Rễ con tự rụng đi khi thân rễ già làm cho  bề mặt thân rễ nhẵn hơn, có màu vàng nâu rõ hơn. Mặt cắt  màu vàng tươi, nhẵn, chất cứng và dai [2].

D. Thành phần hóa học:

Thành phần quan trọng nhất là Diosgenin. Theo Dược điển Việt Nam V, dược liệu phải chứa không được ít hơn 2,5 % diosgenin  (C27H42O3) tính theo dược liệu khô kiệt [2]. Trong thời kỳ hoa nở, hàm lượng diosgenin lên cao nhất (4,4%). Các nhà khoa học đã chiết được diosgenin tinh khiết từ Nần nghệ với hiệu suất chiết là 2% [3].

E. Tác dụng dược lý:

Diosgenin

Diosgenin là một hợp chất phytochemical (hợp chất có nguồn gốc từ thực vật), được tìm thấy trong nhiều thực phẩm, gia vị và đang dần trở nên phổ biến hơn các thuốc tổng hợp thông thường, chủ yếu là do chúng hoạt động thông qua nhiều mục tiêu phân tử phối hợp để ngăn ngừa hoặc điều trị hiệu quả các bệnh mãn tính. Các hợp chất phytochemical cũng an toàn (không có hoặc có rất ít tác dụng độc hại) và có sinh khả dụng tốt hơn. Saponin thực phẩm đã được sử dụng trong y học truyền thống để chống lại một loạt các bệnh bao gồm một số bệnh ung thư. Diosgenin, một saponin steroid tự nhiên được tìm thấy rất nhiều trong các cây thuộc loài Dioscorea sp. Diosgenin là tiền chất của nhiều thuốc steroid tổng hợp khác nhau được sử dụng rộng rãi trong ngành dược phẩm. Trong hai thập kỷ qua, một loạt các nghiên cứu tiền lâm sàng và cơ học đã được tiến hành độc lập để hiểu vai trò có lợi của diosgenin đối với các bệnh chuyển hóa (tăng cholesterol máu, rối loạn lipid máu, tiểu đường và béo phì), viêm và ung thư. Trong các mô hình thử nghiệm của bệnh nhân béo phì, diosgenin làm giảm triglyceride huyết tương và gan và cải thiện cân bằng glucose nội môi hợp lý bằng cách thúc đẩy biệt hóa tế bào mỡ và ức chế viêm trong các mô mỡ. Một số thí nghiệm đã được thực hiện để hiểu được hiệu quả tiền lâm sàng của diosgenin như là một tác nhân hóa trị liệu / điều trị chống lại ung thư trong một số cơ quan nội tạng.

1. Tác dụng hạ mỡ máu và béo phì

Khả năng hạ lipid của diosgenin đã được chứng minh bằng một số nghiên cứu thực nghiệm

(Uemura et al., 2010). Hai nghiên cứu lâm sàng đã được công bố gần đây cho thấy các đặc tính chống béo phì của diosgenin. Đầu tiên là một thử nghiệm chéo, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, 3 giai đoạn (14 ngày) với mười hai tình nguyện viên nam khỏe mạnh, đã chứng minh rằng diosgenin giảm tiêu thụ chất béo tự phát so với giả dược (Chevassus et al., 2009). Trong nghiên cứu thứ hai, một thử nghiệm song song, ngẫu nhiên, mù đôi 6 tuần đối chứng giả dược, với ba mươi chín tình nguyện viên nam thừa cân khỏe mạnh, cho thấy giảm tiêu thụ chất béo trong chế độ ăn ở nhóm sử dụng diosgenin so với nhóm nhận giả dược (Chevassus et al., 2010). Kết hợp lại, hai nghiên cứu lâm sàng cung cấp bằng chứng để hỗ trợ diosgenin có thể có khả năng điều chỉnh sự tiêu thụ chất béo ở người [8].

Nhóm các nhà nghiên cứu Trường Đại học Dược Hà Nội (Hoàng Kim Huyền, Nguyễn Minh Thu, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Trung Chính) đã nghiên cứu về tác dụng hạ cholesterol của Nần nghệ trên mô hình gây bệnh thực nghiệm. Mô hình gà công nghiệp trắng được gây tăng cholesterol theo cơ chế tăng nội sinh theo mô hình Steinberg bằng cách tiêm diethylstiboestrol. Kết quả cao Nần nghệ có tác dụng hạ cholesterol rõ ràng. Tất cả các chỉ số lipid máu của nhóm thử nghiệm sử dụng cao Nần nghệ đều trở về trị số bình thường. Điều đáng lưu ý là Nần nghệ hạ cholesterol, đặc biệt hạ rất mạnh LDL (low density lipoprotein: lipoprotein tỷ trọng thấp – còn gọi là các “cholesterol xấu” bởi vì chất này làm tăng các mảng bám mỡ trong động mạch, gây các biến chứng xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim…). Thêm nữa, Nần nghệ lại có xu hướng tăng HDL (high density lipoprotein: lipoprotein tỷ trọng cao – còn gọi là các “cholesterol tốt”, giúp chuyển cholesterol dư thừa từ thành mạch máu về gan để chuyển hóa, giảm nguy cơ tai biến, nhồi máu cơ tim) [3].

Nhóm các nhà nghiên cứu trường Đại học Y Hà Nội (Trương Thị Mai Vân, Nguyễn Thanh Thủy, Đỗ Thị Phương) đã nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn lipid máu và khảo sát tác dụng không mong muốn trên lâm sàng và cận lân sàng của viên hoàn bào chế từ cây Nần nghệ. Kết quả cho thấy sau 30 ngày điều trị, cholesterol toàn phần giảm 0,48± 0,27 mmol/l, tỷ lệ giảm 8,7% (p < 0,05); triglycerid giảm 1,15± 0,40 mmol/l, tỷ lệ giảm 28,2% (p < 0,05); LDL – C giảm 0,37± 0,16 mmol/l, tỷ lệ giảm 11,1% (p < 0,05); HDL – C tăng 0,02± 0,18 mmol/l, tỷ lệ tăng 1,8% (p > 0,05). Kết quả điều trị chung theo y học cổ truyền: rất tốt chiếm 6,7%, tốt chiếm 26,6%, khá chiếm 40,0%, không hiệu quả chiếm 26,7%. Viên hoàn có tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần, triglycerid, LDL – C và tăng HDL – C sau 30 ngày điều trị trên bệnh nhân rối loạn lipid máu và chưa phát hiện tác dụng không mong muốn trên lâm sàng và cận lâm sàng [4].

Dược điển Việt Nam đã công nhận công dụng hạ cholesterol máu của dược liệu Nần nghệ [2].

2. Tác dụng trên đường huyết

Có một số báo cáo cho thấy các nguồn thực phẩm giàu diosgenin góp phần vào tác dụng chống tiểu đường trong các mô hình thí nghiệm (Basch et al., 2003; Omoruyi, 2008). Bằng chứng từ các thử nghiệm lâm sàng ở người cho thấy rõ rằng diosgenin cải thiện đường huyết và các thông số trao đổi chất khác dẫn đến điều trị bệnh tiểu đường (Basch et al., 2003) Diosgenin làm giảm đáng kể glucose huyết tương trong chuột mắc bệnh tiểu đường do streptozotocin gây ra, bằng cách so sánh với các biện pháp kiểm soát bệnh tiểu đường cho thấy đặc tính chống tiểu đường của nó (McAnuff và cộng sự, 2005). Những kết quả này đã được củng cố bởi thực tế là một số enzyme gan giới hạn tỷ lệ thường tham gia vào quá trình chuyển hóa glucose bị thay đổi khi mắc tiểu đường đã được bình thường hóa bằng cách điều trị bằng diosgenin (McAnuff et al., 2005). Vì vậy, có nhiều bằng chứng (bao gồm cả các thử nghiệm lâm sàng) cho thấy rằng diosgenin có thể được sử dụng như một thuốc thay thế để điều trị bệnh tiểu đường và các biến chứng liên quan [8].

3. Tác dụng trên chức năng gan, thận, bài tiết mật

Có rất nhiều thông tin cho thấy rằng diosgenin có thể ảnh hưởng đến một số bệnh chuyển hóa do có ảnh hưởng trực tiếp đến một số mục tiêu phân tử tham gia vào quá trình chuyển hóa enzyme cũng như quá trình dẫn truyền tín hiệu ở gan. Vì vậy, những điều này giúp diosgenin có thể điều hòa chức năng gan một cách hợp lý và có thể hỗ trợ trong việc kiểm soát điều trị các bệnh về gan. Thử nghiệm trên dược liệu giàu diosgenin cho thấy tác dụng làm suy yếu xơ gan do CCl4 ở chuột (Chan và cộng sự, 2010), góp phần bảo vệ mô bệnh học đáng kể trên gan chuột bị gây độc do ethanol (Thirunavukkarasu và cộng sự, 2003). Hơn nữa, các tác giả báo cáo rằng diosgenin bảo vệ chống độc tính của ethanol là bằng cách điều hòa peroxid hóa lipid và tình trạng chống oxy hóa (Thirunavukkarasu et al., 2003). Điều trị bằng dược liệu giàu diosgenin làm giảm trọng lượng gan và giảm gan nhiễm mỡ trong chuột Zucker béo phì (Raju và Bird, 2006). Cơ chế chính kiểm soát gan nhiễm mỡ là thông qua việc hạ thấp yếu tố hoại tử khối u huyết tương (TNF) –α – một cytokine tiền viêm và giảm tổng lượng chất béo và triglycerides trung tính trong gan (Raju và Bird, 2006).

4. Chống u

Có một số nghiên cứu đã đề cập đến tiềm năng điều hòa khối u in vivo của diosgenin. Diosgenin ức chế sự hình thành của các tuyến giống như ống bất thường trong niêm mạc đại tràng và trực tràng (ACF), tổn thương tiền ung thư giả định gây ra bởi azoxymethane (AOM) trên chuột F344. Khả năng ức chế của diosgenin trên cả tổng số ACF và độ lớn của ACF gợi ý rằng nó có hiệu quả có thể ngăn ngừa, làm chậm và ngừng sự xuất hiện và tăng trưởng của tổn thương tiền ung thư ở đại tràng (Raju et al., 2004). Hơn nữa, liều thấp hơn 0,05% có hiệu quả tương đương với liều cao hơn 0,1% trong việc ngăn chặn sự hình thành ACF (Raju et al., 2004). Trong một nghiên cứu mù đôi được thiết kế để đánh giá tiềm năng điều chỉnh khối u của diosgenin bằng cách sử dụng chuột F344 được tiêm AOM, Malisetty et al. (2005) báo cáo rằng 0,1% diosgenin ức chế tỷ lệ mắc ung thư biểu mô đại tràng xâm lấn và không xâm lấn lên đến 60% (Malisetty và cộng sự, 2005). Ngoài ra, diosgenin làm giảm sự nhân lên của khối u đại tràng (adenocarcinomas / chuột) so với nhóm đối chứng. Một phần, những hiệu ứng in vivo này đã được hiển thị liên quan đến chỉ số kháng nguyên nhân tế bào (PCNA) tăng sinh thấp hơn trong các khối u đại tràng gợi ý rằng diosgenin làm suy giảm sự tăng sinh tế bào khối u (Malisetty et al., 2005). Diosgenin đã được chứng minh là làm giảm quá trình viêm trong các mô hình động vật có liên quan. Ví dụ, diosgenin giảm viêm ruột cấp tính và bình thường hóa sự bài tiết mật trong viêm ruột do indomethacin gây ra ở chuột (Yamada et al., 1997). Vai trò của viêm mãn tính đối với quá trình sinh ung thư là rất quan trọng (Dinarello, 2006); do đó nghiên cứu của Yamada et al. (1997) chứng minh khả năng của diosgenin có hiệu quả điều trị viêm có thể được ngoại suy ra tác dụng hóa trị tương lai của nó chống lại ung thư [8].

5. Tác dụng khác

Nần nghệ có tác dụng giải độc, tiêu thũng, tán ứ, chỉ thống, khu phong trừ thấp. Vì vậy Nần nghệ thường được sử dụng trong điều trị đau xương khớp do phong thấp, đau lưng gối, viêm đường tiết niệu, bạch đới, rắn cắn [2].

Một số công trình nghiên cứu về thảo dược quý Nần nghệ đã được công bố:

Tiếng việt

1Diosgenin trong Nần nghệ, Dược học, số 2/1983

2Nghiên cứu một số loài Dioscorea ở Việt Nam nhằm tìm nguồn nguyên liệu diosgenin. Luận án Phó tiến sĩ dược học, Liên xô 1985

3Động thái tích lũy diosgenin trong Dioscorea collettiiHook.f, Farmasia (LX), số 1/1986.

4Điều tra trữ lượng cây Nần nghệ (Dioscorea collettiiHook.f). Công trình nghiên cứu khoa học y dược, 1986.

5Diosgenin trong một số loài Dioscorea ở Việt Nam. Công trình nghiên cứu khoa học y dược, 1986.

6. Đỗ Thị Bích Thủy (1987), Bước đầu nghiên cứu chế phẩm từ Nần nghệ, chuyên đề tốt nghiệp Dược sĩ đại học

7. Nguyễn Minh Thư (1989), Nghiên cứu thành phần hóa học của chế phẩm từ Nần nghệ(Dioscorea collettii Hook. f.), chuyên đề tốt nghiệp Dược sĩ đại học

8Một số đặc điểm của dược liệu Nần nghệ và chế phẩm Diosgin. Tóm tắt các công trình nghiên cứu khoa học đại học Dược Hà Nội 1986-1990.

9Khảo sát độc tính của Nần nghệ. Dược học, số 2/1991

10Khảo sát một số tác dụng dược lý của Nần nghệ. Dược học, số 5/1991

11Nhận định bước đầu tác dụng hạ các thành phần lipoprotein máu cao của Diosgin. Tạp chí y học thực hành, số 3/1992.

12. Trần Thị Tuyết (1992), Tiếp tục nghiên cứu  chế phẩm Diosgin từ Nần nghệ (Dioscorea collettii Hook. f. Dioscoreaceae, Công trình tốt nghiệp Dược sĩ

13Thuốc Diosgin từ Nần nghệ Dioscorea collettii Hook.f, Đề tài nghiên cứu cấp trường, 1995

14. Nguyễn Thị Lệ Hà (2016), “Nghiên cứu hiệu quả điều trị rối loạn Lipid máu của Viên hoàn cứng Hamomax (chiết xuất từ Nần nghệ)“, Luận văn Bác sỹ chuyên khoa Cấp II – Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương.

Tiếng nước ngoài

15. Yang Minghe (1983), Steriidal sapogenins in Dioscorea collettii, Planta Medica, V. 49, p. 36-42

16. Игуен Хоанг (1985), Изучениенекотоых представителей рода Dioscorea L. Флоры вьетнама как источников диосгенина, Диссертация на соискание ученой степени кандидата фармацевтических наук, c. 128-129

Tài liệu tham khảo

  1. Sách đỏ Việt Nam, tập 2, 1996, trang 391-392
  2. Dược điển Việt Nam V, tập 2.
  3. Hoàng Kim Huyền và cộng sự, Khảo sát sơ bộ một số tác dụng dược lý của Nần nghệ.
  4. Trương Thị Mai Vân, Hiệu quả của viên hoàn Hamomax điều trị rối loạn lipid máu thể tỳ hư đàm thấp.
  5. Ryan E. Temel, Diosgenin stimulation of fecal cholesterol excretion in mice is not NPC1L1 dependent.
  6. In Suk SON, Antioxidative and Hypolipidemic Effects of Diosgenin, a Steroidal Saponin of Yam (Dioscorea spp.), on High-Cholesterol Fed Rats.
  7. M.N.Cayen, D.Dvornik, Combined effects of clofibrate and diosgenin on cholesterol metabolism in rats.
  8. Jayadev Raju và Chinthalapally V. Rao, Diosgenin, a Steroid Saponin Constituent of Yams and Fenugreek: Emerging Evidence for Applications in Medicine.
  • Bình luận Facebook
  • Bình luận mặc định

Ý kiến của bạn

Ý kiến của bạn